Chúa sơn lâm là một thuật ngữ có tính ước lệ trong biểu tượng văn hóa dùng để chỉ về một loài động vật có thật được tôn xưng lên vị trí cao nhất trong vương quốc các loài động vật (trừ con người). Vai trò ngự trị này hiện hữu ở những nơi chúng hiện diện cũng như trong tâm thức và văn hóa, đồng thời từ đó gắn liền với các hình thức thờ phụng, mê tín dị đoan. Vua của muôn thú được xưng tụng là loài vật mạnh mẽ nhất, khôn ngoan nhất, oai linh và ảnh hưởng thống trị đến các loài vật, muông thú, và cũng thường gắn liền với biểu tượng của Vương quyền, sự tôn nghiêm, cao thượng, quyền lực và lòng can đảm. Chúa sơn lâm còn được gọi với các mỹ từ tôn xưng khác như Chúa tể sơn lâm hay Chủ tể sơn lâm hay là Vua của muôn thú, hoặc là Vua của muôn loài, cũng như Dã thú chi vương, hay như Chúa tể rừng xanh rồi Mãnh chúa rừng xanh và nhiều tên gọi ước lệ khác.
Sự tích Ông Hoàng Mười giáng thế thành Lê Khôi
Theo một truyền thuyết khác, Ông Hoàng Mười được cho là hiện thân của tướng sĩ Lê Khôi, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ khai quốc nhà Lê Sơ và trong cuộc chiến Lam Sơn hào hùng. Lê Khôi là cháu ruột của vua Lê Lợi, và ông được giao trọng trách làm trấn thủ Hóa Châu.
Lê Khôi không chỉ là một nhà quân sự xuất sắc, mà còn là một nhà quản lý tài ba, luôn đặt lợi ích của dân chúng lên hàng đầu. Ông không chỉ dành tâm huyết để giữ gìn an ninh và ổn định cho vùng đất của mình mà còn tham gia vào các chiến dịch chống lại các thế lực thù địch như quân Bế Khắc Thiệu và quân Chiêm Thành, đồng thời lập nhiều công lao lớn trong quá trình này.
Lê Khôi qua đời vào năm 1446 tại núi Nam giới, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, để lại một di sản vĩ đại và một tinh thần chiến đấu không ngừng nghỉ cho dân tộc.
Mặc dù nhiều người cho rằng việc liên kết Ông Hoàng Mười với tướng Nguyễn Xí là hợp lý nhất, nhưng cũng có quan điểm cho rằng ông có thể là hiện thân của nhiều vị tướng khác nhau. Việc này thể hiện sự đa dạng và phong phú của truyền thuyết dân gian, không nên bó hẹp trong một quan điểm duy nhất.
Một số thông tin khác về Ông Hoàng Mười
Trong truyền thống dân gian, Ông Hoàng Mười cùng với Ông Hoàng Bảy là hai vị thần linh luôn được tôn vinh và về ngự đồng. Ông Hoàng Mười được xem là người được Vua Mẫu ủy thác chấm lính và nhận đồng, khác biệt với Ông Hoàng Bảy, người thường được biết đến với phong thái hào hoa và tài năng văn chương.
Khi về ngự đồng, Ông Hoàng Mười thường mặc áo vàng, thường có hình rồng uốn lượn thành chữ thọ, đầu đội khăn xếp và thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông thường thực hiện các hành động khác nhau như múa cờ xông pha chinh chiến, sử dụng quạt như một cây bút để viết văn thơ, hoặc cầm dải lụa vàng như một cách biểu hiện việc hỗ trợ người dân trong lao động hàng ngày, được coi là cách kéo tài lộc về cho bản đền. Như Ông Hoàng Bảy, ông cũng thường cầm hèo lên ngựa để chấm lính, và người dân thường dùng tờ tiền 10.000₫ màu đỏ vàng làm lá cờ, cài lên đầu ông để tôn vinh ông.
Khi ông về ngự đồng, thường có sự dâng đại chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, và thuốc lá, là những sản vật đặc trưng của quê hương ông. Ngoài ra, ông cũng thường cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ mượt mà và êm tai để làm cho không khí vui tươi và ấm áp hơn.
Căn Ông Hoàng Mười là một khái niệm trong tâm linh dân gian, đồng nghĩa với việc một người được coi là có duyên với Ông Hoàng Mười. Theo quan điểm này, mỗi người có số mệnh và số phận riêng được xác định từ trước bởi vận mệnh và nghiệp duyên từ kiếp trước. Những người được coi là có căn duyên với Ông Hoàng Mười thường được xem như là những người đã có một mối liên kết đặc biệt với thần linh này từ kiếp trước, và được chọn để trả ơn ân duyên đã nhận được từ Thần.
Theo quan điểm này, người có căn duyên sẽ dần dần nhận biết được dấu hiệu và nguyên tắc dẫn đường từ Thần Ông Hoàng Mười, hướng dẫn họ tìm đến chân gốc của số mệnh và nghiệp duyên của mình. Điều này thường được xem như là một hành trình tìm kiếm và khám phá bản chất sâu thẳm của bản mệnh, và sẽ đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời, họ sẽ khởi duyên được và được dẫn đường bởi Thần Ông Hoàng Mười để thực hiện mục tiêu và báo đáp ân duyên đã nhận được.
Có một số dấu hiệu có thể giúp nhận biết xem một người có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười hay không, và dưới đây là một số điểm cơ bản:
Nhưng quan trọng nhất, mỗi người có thể có những cảm nhận khác nhau về việc có căn duyên với Thánh Ông Hoàng Mười, dựa vào những trải nghiệm và quan hệ cá nhân của họ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là giữ vững truyền thống tôn trọng và biết ơn người đã gieo mầm lòng từ bi và lòng nhân ái.
Các đền thờ Ông Hoàng Mười được tôn vinh khắp nơi từ Bắc đến Nam, nhưng ba địa điểm nổi tiếng nhất là Đền Chợ Củi ở Hà Tĩnh, Mỏ Hạc Linh Từ ở Nghệ An và Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười ở Hà Tĩnh.
Đền Chợ Củi, hay còn gọi là đền Hoàng Mười, nằm tại xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nơi đây hằng năm thu hút nhiều du khách đến thăm và thực hiện lễ thờ cúng, hy vọng nhận được sự phúc lộc và bình an.
Đây là một ngôi đền có niên đại từ năm 1634, xây dựng từ thời hậu Lê tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sau nhiều lần tu bổ, đền hiện nay gồm ba toà chính: Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.
Mộ đức thánh Hoàng Mười cũng nằm trong khu di tích Mỏ Hạc Linh Từ ở xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Theo truyền thống, đây được cho là nơi an nghỉ của ông Nguyễn Duy Lạc, một hiện thân của Thánh Hoàng Mười.
Ngày 23/11/2014 tại phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Đền Dinh Đô Quan Hoàng Mười đã được khánh thành. Đền này được xây dựng từ thời kỳ Nhà Lý vào khoảng năm 1060, tọa lạc tại ngã ba giữa Kênh nhà Lê, Sông La và Sông Lam, gần vùng ngoài đê La Giang.
Chúng ta đã cùng nhau khám phá về Quan Hoàng Mười qua hàng loạt thông tin và thần thoại đặc sắc.
Hy vọng rằng những kiến thức này đã giúp bạn hiểu rõ hơn về vai trò, tầm quan trọng và huyền thoại iên quan đến Quan Hoàng Mười. Dù là trong lịch sử hay trong tâm trí của người dân, nhân vật này luôn gắn liền với những câu chuyện huyền bí và sức mạnh tinh thần.
Hãy tiếp tục khám phá và truyền bá những giá trị văn hóa truyền thống này để giữ gìn và phát triển di sản văn hóa của dân tộc. Cảm ơn bạn đã đồng hành cùng chúng tôi trong hành trình khám phá về Quan Hoàng Mười!
Ngày 18/11, tại Hà Nội, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vifores) tổ chức Đại hội nhiệm kỳ IV (2019 – 2024) nhằm tổng kết nhiệm kỳ 5 năm vừa qua, bầu ra Ban chấp hành nhiệm kỳ mới, đồng thời đưa ra phương hướng hoạt động, chương trình, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ 5 năm tới (2019 – 2024).
Theo đó, Ban thường vụ Vifores nhiệm kỳ IV (2019-2024) gồm 21 thành viên. Trong đó, Chủ tịch Hiệp hội là ông Đỗ Xuân Lập, Giám đốc Công ty CP Kỹ nghệ Gỗ Tiến Đạt. Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng Thư ký Vifores là ông Ngô Sỹ Hoài.
Ban thường vụ Vifores nhiệm kỳ mới ra mắt.
Ngoài ra, Vifores gồm 7 Phó chủ tịch khác là các ông: Nguyễn Quốc Khanh, Điền Quang Hiệp, Lê Minh Thiện, Lê Xuân Quân, Huỳnh Quang Thanh, Vũ Hải Bằng, Cao Chí Công.
Đáng chú ý, trong danh sách Phó Chủ tịch Vifores nhiệm kỳ này, bên cạnh các lãnh đạo doanh nghiệp ngành gỗ, có ông Cao Chí Công - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNT).
Thời gian qua, trong quá trình hoạt động, Vifores đã thường xuyên hỗ trợ doanh nghiệp trong tìm kiếm, tiếp xúc khách hàng; tham gia ý kiến sửa đổi các bộ luật liên quan đến ngành gỗ và lâm sản; tham vấn nhiều chính sách thiết thực, hỗ trợ tích cực giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp… Tuy nhiên, hoạt động của hiệp hội cũng còn nhiều hạn chế do thiếu nguồn lực, kinh phí hoạt động xúc tiến thương mại…
Chính vì thế, trong thời gian tới Ban chấp hành sẽ thực hiện nhiều hoạt động nhằm sự gắn kết chặt chẽ giữa người trồng rừng, doanh nghiệp chế biến, sản xuất gỗ; tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp gỗ và lâm sản đẩy mạnh xúc tiến thương mại ra thị trường nước ngoài; tập huấn cho các doanh nghiệp về Hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp của Việt Nam; tham gia xây dựng biểu thuế xuất nhập khẩu theo Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA)…
Phát biểu tại đại hội, ông Nguyễn Quốc Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp đề nghị trong nhiệm kỳ tới, Vifores sẽ phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Lâm nghiệp triển khai tốt nhiều nội dung, trở thành một trong những địa chỉ đáng tin cậy, thu hút nhiều doanh nghiệp trở thành hội viên hiệp hôi; tham vấn nhiều hơn cho Tổng cục trong xây dựng cơ chế chính sách, đặc biệt là chiến lược quy hoạch ngành lâm nghiệp, nhấn mạnh vào khâu chế biến gỗ.
Thành lập từ năm 2000, Vifores có nhiệm vụ chính là cầu nối giữa doanh nghiệp và Chính phủ; giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
Sau thời gian thành lập và phát triển, Vifores đã cùng với cộng đồng doanh nghiệp gỗ và lâm sản đạt được nhiều bước tiến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu gỗ tăng trưởng đột phá và liên tục. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu gỗ mới chỉ đạt gần 300 triệu USD thì đến năm 2019, con số này đã tăng lên 11 tỷ USD (tăng gấp 50 lần). Số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ phát triển không ngừng, năm 2000 chỉ có hơn 100 doanh nghiệp, năm 2019 đạt hơn 5.000 doanh nghiệp.