Bắc Trung Bộ Wikipedia Tiếng Anh Pdf

Bắc Trung Bộ Wikipedia Tiếng Anh Pdf

Trung Bộ (hay còn gọi là Miền Trung) là khu vực địa lý nằm ở phần giữa đất liền của Việt Nam, nối Bắc Bộ với Nam Bộ. Hiện nay, Trung Bộ là miền có diện tích lớn nhất trong 3 miền tại Việt Nam với 151.234 km². Trung Bộ có nhiều đồi núi lan sát ra biển, chia cắt các đồng bằng nhỏ hẹp. Khí hậu và phần lớn đất đai thường khắc nghiệt hơn hai miền còn lại. Trung Bộ được chia thành 3 khu vực là vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và vùng Tây Nguyên; với trung tâm là thành phố Huế và thành phố Đà Nẵng. Tùy vào ngữ cảnh, một phần của Bắc Trung Bộ cùng với vùng Bắc Bộ được gọi chung là Miền Bắc Việt Nam; Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ, phần còn lại của Bắc Trung Bộ cùng với vùng Nam Bộ được gọi chung là Miền Nam Việt Nam.

Biển số xe các huyện thị xã và thành phố thuộc tỉnh Bắc Giang

Danh sách đặc sản và ẩm thực ở Bắc Giang còn bao gồm nhiều món như bánh đúc Đồng Quan, khoai sọ Lục Nam, chè kho Mỹ Độ, mì gạo Châu Sơn, rượu men lá Kiên Thành, cua da Yên Dũng, rau cần Hoàng Lương, gạo thơm Yên Dũng, củ đậu Lục Nam, gỏi cá mè Lý Viên, vải thiều Lục Ngạn, mì gạo Kế và bánh đa nướng Kế.

Bắc Giang là vùng đất thuộc tứ chiếng chèo gốc, một trong những cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong Hý phường phả lục gồm Phạm Thị Trân, Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất, Chính Vịnh Càn thì có hai vị ở chiếng chèo xứ Bắc là Đào Hoa ở lộ Bắc Giang và Sái Ất ở phủ Từ Sơn.

Bắc Giang là đất chèo có tiếng xứ Bắc. Ngoài đặc điểm chung, chèo Bắc Giang còn có nét riêng khi mang âm hưởng đậm nét của vùng trung du miền núi, từ phong cách biểu diễn đến lời ca đều khỏe khoắn và mộc mạc hơn. Những năm 80 của thế kỷ trước, khi sáng tác làn điệu chèo, các nhạc sĩ thường sử dụng chất liệu dân ca quan họ và gần đây còn khai thác dân ca dân tộc thiểu số như hát then, hát ví.[24] Bắc Giang có trên 500 lễ hội truyền thống, được coi là đất diễn cho các chiếu Chèo phát triển phong phú như: làng Đồng Quan (Yên Dũng); làng Then (Lạng Giang); làng Hoàng Mai (Việt Yên); làng Bắc Lý (Hiệp Hòa),...

Thành phố Bắc Giang có làng Đồng Quan, xã Đồng Sơn là làng có truyền thống hát chèo từ xa xưa, đến nay đội chèo có 18 người cả diễn viên và nhạc công do bà Khổng Thị Tiêu phụ trách; Đội chèo làng Đồng Nhân, xã Đồng Phúc vốn là làng chèo truyền thống, có 14 người do ông Nguyễn Khánh Dư làm đội trưởng. Làng chèo Dốc Sở xã Đồng Sơn có 13 người do ông Nguyễn Văn Dương làm đội trưởng; Làng chèo Tân Ninh xã Tư Mại, đây là làng chèo cổ, có 20 người do ông Lưu Xuân Đức phụ trách. Từ năm 2004 huyện Yên Dũng còn thành lập các câu lạc bộ chèo như: Câu lạc bộ "Chiếu chèo quê" do ông Nguyễn Văn Đán làm chủ nhiệm, CLB có 24 người tập hợp từ các xã trong huyện. CLB Đồng Tiến Đức có 50 người là hội viên, CLB thôn Đồng Nhân xã Đồng Phúc do ông Nguyễn Văn Toàn làm chủ nhiệm. Hầu hết các đội chèo và CLB đều duy trì và phát triển đội ngũ nhạc công của dàn nhạc dân tộc. Huyện Yên Dũng là nơi có những làng chèo truyền thống như: Tân Độ (xã Tân Liễu); Đồng Nhân (xã Đồng Phúc); Tân Ninh, Bắc Am (xã Tư Mại)... Từ năm 2005 đến nay, Yên Dũng đã thành lập được 6 CLB chèo, khôi phục 6 làng chèo truyền thống, thu hút hàng trăm người tham gia. Không chỉ có các CLB hoạt động ở thôn, xã, Yên Dũng còn thành lập mô hình cấp huyện với gần 20 thành viên thường xuyên hoạt động tại CLB chèo Yên Dũng.[25] Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên.[26]

Thị xã Việt Yên: Có các làng chèo cổ và nay còn một số đội được duy trì ở mức độ hát và dựng các tiểu phẩm mới như: Hoàng Mai (phường Nếnh); làng Mỏ Thổ (xã Minh Đức); Làng Trung Đồng (phường Vân Trung); làng Kiểu (phường Bích Động), làng Vân (xã Vân Hà)... Huyện Tân Yên: Làng Dương Lâm (xã An Dương), đội chèo xã Ngọc Châu; làng Hạ (xã Cao Thượng), riêng làng Hạ vẫn là làng chèo truyền thống, đến nay vẫn duy trì và hoạt động. Đội chèo có 30 người cả diễn viên và nhạc công do ông Trọng Nguyên làm đội trưởng. Huyện Lạng Giang: Làng An Lạc (xã Quang Thịnh) do ông Khải làm đội trưởng; làng Then (xã Thái Đào) do ông Nguyễn Văn Khoa làm đội trưởng (đội có 20 người vừa hát chèo, sử dụng nhạc cụ dân tộc, vừa có dàn nhạc viôlông); làng Liên Sơn (xã Tân Dĩnh) do bà Ngô Thị Liên 70 tuổi làm đội trưởng; và làng Chuông Vàng (xã Tân Hưng). Ở Lạng Giang còn duy trì hát chèo là chủ yếu, ít dựng các trích đoạn truyền thống. Tuy vậy còn giữ được dàn nhạc dân tộc khá phong phú.[27]

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về

Bắc Thái là một tỉnh cũ ở trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam.

Tỉnh Bắc Thái có vị trí địa lý (năm 1991-1996):

Từ xa xưa, 2 tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên vốn cùng thuộc một đơn vị hành chính thống nhất. Thời Hậu Lê gọi là thừa tuyên Thái Nguyên hay thừa tuyên Ninh Sóc, thời Lê-Trịnh gọi là trấn Thái Nguyên, thời Nguyễn gọi là tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1900, thực dân Pháp tách toàn bộ phủ Thông Hoá ra khỏi tỉnh Thái Nguyên, lập ra tỉnh Bắc Kạn.

Năm 1965, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành quyết định sáp nhập 2 tỉnh trên thành tỉnh Bắc Thái[1]. Đơn vị hành chính ban đầu gồm: Thành phố Thái Nguyên, thị xã Bắc Kạn và 12 huyện: Bạch Thông, Chợ Đồn, Chợ Rã, Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Na Rì, Ngân Sơn, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai.

Ngày 14 tháng 4 năm 1967, chuyển thị xã Bắc Kạn thành thị trấn Bắc Kạn trực thuộc huyện Bạch Thông.

Ngày 28 tháng 12 năm 1978, chuyển 2 huyện Ngân Sơn, Chợ Rã về tỉnh Cao Bằng quản lý vừa được tái lập.

Ngày 11 tháng 4 năm 1985, thành lập thị xã Sông Công trên cơ sở tách thị trấn Mỏ Chè và 3 xã: Cải Đan, Tân Quang, Bá Xuyên thuộc huyện Phổ Yên.

Ngày 16 tháng 7 năm 1990, tái lập thị xã Bắc Kạn từ huyện Bạch Thông.

Đến thời điểm năm 1996, tỉnh Bắc Thái có diện tích 8336,64 km², dân số 1.287.346 người, gồm: Thành phố Thái Nguyên (tỉnh lỵ), thị xã Bắc Kạn, thị xã Sông Công và 10 huyện: Bạch Thông, Chợ Đồn, Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Na Rì, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai.

Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Bắc Thái để tái lập tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên[2]. Cùng lúc đó, 2 huyện Ngân Sơn, Ba Bể của tỉnh Cao Bằng trở về với tỉnh Bắc Kạn:

Hồ Bắc (tiếng Trung: 湖北; bính âm: Húběi [nghe]ⓘ, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một nước chư hầu thời xưa, sau trở thành đất thuộc nước Sở và Nhà Tần, nay nằm ở phía đông của tỉnh. Tên Hồ Bắc ám chỉ về vị trí của tỉnh này nằm ở phía bắc của hồ Động Đình.[1] Giản xưng không chính thức của Hồ Bắc là Sở (楚), gọi theo nước Sở hùng mạnh ở đây vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.

Năm 2018, Hồ Bắc là tỉnh đông thứ chín về số dân, đứng thứ bảy về kinh tế Trung Quốc với 59 triệu dân, tương đương với Ý [2] và GDP đạt 3.937 tỉ NDT (594,9 tỉ USD) tương ứng với Ba Lan.[3]

Hồ Bắc giáp với Hà Nam về phía bắc, An Huy về phía đông, Giang Tây về phía đông nam, Hồ Nam về phía nam, Trùng Khánh về phía tây, và Thiểm Tây về phía tây bắc. Tỉnh này có đập Tam Hiệp vào hàng lớn nhất thế giới tại Nghi Xương ở phía tây.

Tỉnh Hồ Bắc từng là tâm điểm của đại dịch COVID-19 tại Trung Quốc.

Hồ Bắc có một lịch sử lâu dài, khi khai quật khảo cổ tại Vân huyện, người ta đã phát hiện ra hóa thạch của người Vân Dương (郧阳人) và người Trường Dương (长阳人) thời viễn cổ. Tại di chỉ văn hóa Khuất Gia Lĩnh (屈家嶺文化) đã phát hiện được một số lượng lớn các công cụ bằng đá và đồ gốm thời đại đồ đá mới, phản ánh nền nông nghiệp, đánh bắt cá, săn bắn, thủ công nghiệp của khu vực đã có sự phát triển đáng kể. Từ thời nhà Hạ, văn minh Trung Nguyên đã có ảnh hưởng đến vùng đồng bằng Giang Hán. Đến thời nhà Thương, Hồ Bắc đã được sáp nhập vào cương vực Trung Hoa. Thời Tây Chu, trên địa phận Hồ Bắc là lãnh thổ của nhiều tiểu quốc chư hầu, có thể kể đến là Ngạc, Đặng, Quyền, Nhược (鄀), Tùy (隨), Tằng (曾), La (罗), Vân (郧), Lại (赖), Dong (庸), Đường (唐), Quân (麇), Đam (聃). Đến thời Xuân Thu (770 TCN - 476 TCN), nước Sở nguyên ở Hà Nam ngày nay trở nên lớn mạnh, dần dần thôn tính các nước khác ở phương nam. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ VIII-đầu thế kỷ thứ VII, nước Sở đã dời quốc đô từ Đan Dương (丹阳, nay thuộc Tích Xuyên của Hà Nam), đến Dĩnh (郢, nay thuộc Dĩnh Châu của Hồ Bắc); Dĩnh vẫn vị thế là quốc đô nước Sở cho đến năm 278 TCN. Nước Sở đã góp phần mở rộng nền văn minh Trung Hoa xuống phía nam song cũng có nhiều nét văn hóa độc đáo. Từ lưu vực Trường Giang, Sở tiếp tục mở rộng lãnh thổ lên bình nguyên Hoa Bắc. Sở Trang Vương là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu.

Đến thời Chiến Quốc (475 TCN - 221 TCN), Sở là một trong Chiến Quốc thất hùng. Theo thời gian, nước Sở và nước Tần trở thành hai nước có lãnh thổ rộng lớn nhất. Trong các cuộc chiến tranh giữa Sở và Tần, Sở đã để mất nhiều đất đai, đầu tiên là tầm ảnh hưởng tại bồn địa Tứ Xuyên, đến năm 278 TCN, thì để mất vùng lãnh thổ lõi là tỉnh Hồ Bắc hiện nay và phải dời quốc đô khỏi đất Dĩnh. Sở sau đó triệt thoái về phía đông song đã bị Tần tiêu diệt hoàn toàn vào năm 223 TCN.

Sau khi Tần thống nhất Trung Quốc, nếu muốn đi xuống phía nam cần qua Hồ Bắc nên vùng đất này đã trở thành yếu đạo về giao thông, nhân khẩu bắt đầu gia tăng. Các vùng đầm lầy tại Hồ Bắc đã được con người tiêu thoát nước để trở thành các vùng đất trồng trọt màu mỡ. Nhà Tần cũng thiết lập các đơn vị quận huyện tại địa phận tỉnh Hồ Bắc hiện nay. Do kị húy của Tần Trang Tương Vương (cha Tần Thủy Hoàng), triều đình Nhà Tần đã đổi tên đất Sở thành "Kinh" (荆).

Sau đó, đến thời Nhà Hán, tại Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay đã thiết lập nên Kinh châu, đôi khi được gọi hợp lại thành "Kinh Sở". Thời kỳ cuối của Nhà Hán, tức đầu thế kỷ thứ III, Kinh châu do châu mục Lưu Biểu trấn giữ. Sau khi Lưu Biểu mất, Lưu Tông lên làm Kinh châu mục. Khi Tào Tháo đánh vào Kinh châu, Lưu Tông bèn ra hàng Tào Tháo.[4] Sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích, Lưu Bị lấy danh nghĩa tôn Lưu Kỳ làm thứ sử Kinh Châu[5] để đóng quân ở Kinh châu phát triển lực lượng. Trong và sau trận Xích Bích, phía Đông Ngô tổn thất và tốn kém nhân lực hơn phía Lưu Bị nên không bằng lòng việc Lưu Bị chiếm mấy quận Kinh châu, nhưng vì Lưu Kỳ là con Lưu Biểu - người cai trị cũ của Kinh châu - nhân danh làm chủ Kinh châu nên phía Tôn Quyền đành tạm chấp nhận. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ (con cả Lưu Biểu); Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận. Năm 209, khi Lưu Kỳ qua đời, cuộc tranh chấp Kinh châu giữa Tôn Quyền và Lưu Bị lại căng thẳng, Lưu Bị bị mang tiếng "mượn" Kinh châu lâu ngày không trả. Tháng 12 năm 211, từ Kinh châu, Lưu Bị đưa quân đi đánh Ích châu (nay là Trùng Khánh và Tứ Xuyên), Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh châu. Sau đó, trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm (một tướng của Tào Tháo) thì Tôn Quyền sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu. Trong vài thập kỉ sau đó, Kinh châu hoàn toàn do Đông Ngô nắm giữ.

Đến thời Tây Tấn, các bộ lạc du mục phía bắc Trung Quốc nổi nên và đến đầu thế kỷ thứ IV đã xâm nhập vào Trung Nguyên, khởi đầu cho gần 300 năm Trung Quốc bị phân liệt. Trong thời gian đó, phía bắc Trung Quốc là những quốc gia và triều đại của các dân tộc du mục (song bị Hán hóa ở các mức độ khác nhau), còn phía nam Trung Quốc do các triều đại của người Hán cai quản. Hồ Bắc thuộc miền Nam và nằm dưới quyền cai trị của Đông Tấn và các Nam triều. Sau loạn Hầu Cảnh, vào tháng 11 năm 552, Tiêu Dịch đã xưng đế ở Giang Lăng, tức Lương Nguyên Đế. Tuy nhiên, sau đó đại quân Tây Ngụy đã chiếm được Giang Lăng, bắt sống các tướng cùng Lương Nguyên Đế, giao cho Tiêu Sát trông giữ và sau đó hành hình Lương Nguyên Đế cùng các tôn thất nước Lương tại đây. Bách tính Giang Lăng hơn 1 vạn người bị Tây Ngụy chia cho tướng sĩ làm nô lệ và bị dẫn hết về Quan Trung. Khi thành Giang Lăng bị bao vây, Lương Nguyên Đế đã ra lệnh thiêu hủy 14 vạn quyển sách rất có giá trị, gây tổn thất cho kho tàng văn hóa Trung Quốc. Tây Ngụy đem Giang Lăng giao cho Tiêu Sát coi giữ, sau đó Tiêu Sát thành lập nước Hậu Lương, tức Lương Tuyên Đế, đóng đô ở Giang Lăng, thần phục nhà Tây Ngụy, tồn tại cho đến năm 587.

Sau khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc, ngoại trừ khu vực phía tây bắc và góc phía đông, tuyệt đại bộ phận Hồ Bắc hiện nay thuộc Kinh châu, gồm các quận Nam, Di Lăng, Cạnh Lăng, Miện Dương, Thanh Giang, Tương Dương, Thung Lăng, Hán Giang, An Lục, Vĩnh An, Giang Hạ. Đến năm Khai Hoàng thứ 9 (589) thời Tùy Văn Đế, Giang Hạ quận trong một thời gian đã được đổi tên thành Ngạc Châu, sau đó Ngạc Châu trở thành tên trị sở của quận này. Giản xưng "Ngạc" hiện nay của Hồ Bắc bắt nguồn từ đây.

Sau khi Nhà Đường thay thế nhà Tùy vào năm 617, toàn quốc được chia thành 10 đạo, tây bộ Hồ Bắc thuộc Sơn Nam Đông đạo còn đông bộ Hồ Bắc thuộc Hoài Nam đạo, đông nam bộ Hồ Bắc thuộc Giang Nam Tây đạo còn tây nam bộ của Hồ Bắc thuộc Kiềm Trung đạo. Trên địa phận Hồ Bắc khi đó có 15 châu. Về sau địa bàn Hồ Bắc hiện nay bị phân chia giữa Sơn Nam Đông đạo tiết độ sứ, Kinh Nam tiết độ sứ và Vũ Xương tiết độ sứ. Trong khoảng thời gian này, Hồ Bắc đã trở thành một trong những khu vực đứng đầu về sản xuất ngũ cốc tại Trung Quốc. Sản xuất và mậu dịch trà, cam quýt và các sản vật khác phát triển rất mạnh. Phát triển kinh tế cũng kéo theo sự phát triển về văn hóa, các thi nhân nổi tiếng đương thời như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên, Sầm Than, Lục Vũ, Bì Nhật Hưu khi đi ngao du vùng Kinh Sở đã cho ra đời nhiều thi thiên tráng lệ.

Thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), bảy châu là Tương, Quân, Phòng, Tùy, Dĩnh, Phục, An tại Hồ Bắc thuộc quyền cai quản của Ngũ Đại; còn các châu Hoàng, Kì, Ngạc thì ban đầu thuộc nước Ngô, sau thuộc nước Nam Đường; hai châu Hoàng, Kì về sau lại rơi vào tay triều Hậu Chu; nước Nam Bình nằm ở khu vực Giang Lăng, chiếm cứ ba châu Kinh, Quy, Hạp; riêng châu Thi thì thuộc Thục.

Nhà Tống đã tái thống nhất Trung Quốc vào năm 982, sau đó đặt Kinh Hồ Bắc lộ (giản xưng là Hồ Bắc lộ, tên gọi Hồ Bắc ra đời từ đây) tại đại bộ phận Hồ Bắc hiện nay, lộ này có các châu Ngạc, Phục, Hạp, Quy và Giang Lăng phủ, Đức An phủ, cùng với Kinh Môn quân, Hán Dương quân. Ở bắc bộ Hồ Bắc, triều đình thiết lập Kinh tây nam lộ, gồm các châu Tùy, Kim, Phòng, Quân, Dĩnh cùng Tương Dương phủ và Quang Hoa quân. Đông bộ Hồ Bắc lấy Trường Giang làm ranh giới, phía Bắc thuộc Hoài Nam Tây lộ, gồm hai châu Kì và Hoàng; phía nam thuộc Giang tây nam lộ, gồm Hưng Quốc quân; Thi châu ở tây bộ Hồ Bắc thuộc Quỳ Châu lộ. Đến cuối thời Bắc Tống, quân Kim Nữ Chân xâm nhập phương Bắc, chiến loạn xảy ra, vì thế có rất nhiều người đã di cư xuống phương Nam. Những di dân đem theo cả nền văn hóa và kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến từ phương Bắc xuống, Hồ Bắc vì thế dần trở nên phồn vinh, trở thành vùng sản xuất lương thực trọng điểm.

Sau khi quân Mông Cổ tiêu diệt cả hai triều Kim, Tống và lập ra Nhà Nguyên, đã thiết lập các hành tỉnh làm đơn vị hành chính cấp một. Hồ Bắc khi đó bị phân chia giữa Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh (河南江北等处行中书省) và Hồ Quảng đẳng xứ hành trung thư tỉnh (湖广等处行中书省). Hồ Quảng hành tỉnh bao gồm đông nam bộ Hồ Bắc và các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Hải Nam và góc tây nam của Quảng Đông hiện nay. Tại phần đông nam bộ Hồ Bắc, triều đình Nhà Nguyên đã thiết lập Vũ Xương lộ, Hưng Quốc lộ (Dương Tân) và Hán Dương phủ. Vũ Xương là thủ phủ của Hồ Quảng hành tỉnh, cũng là trung tâm về nông sản của lưu vực Lưỡng Hồ. Đại bộ phận Hồ Bắc thuộc Hà Nam Giang Bắc hành tỉnh, trên địa bàn có Tương Dương lộ, Hoàng Châu lộ, Kì Châu lộ, Hạp Châu lộ (Nghi Xương), Trung Hưng lộ (Kinh Châu) và các phủ Đức An, Miện Dương và An Lục (Chung Tường).

Thời Minh sơ, Hồ Bắc thuộc Hồ Quảng hành tỉnh. Về sau, triều đình chia toàn quốc thành 13 bố chính sứ ti, toàn bộ Hồ Bắc hiện nay về cơ bản thuộc Hồ Quảng thừa tuyên bố chánh sử ti (湖广承宣布政使司), trị sở tại Giang Hạ (nay là Vũ Xương thuộc Vũ Hán). Trên địa bàn Vũ Hán khi đó có các phủ Vũ Xương, Hán Dương, Hoàng Châu, Thừa Thiên, Đức An, Kinh Châu, Tương Dương và Vân Dương. Thời Minh mạt, sau khi Hán Thủy đổi dòng, tại Hồ Bắc đã hình thành nên các thành trấn thương nghiệp mới nổi Hán Khẩu tại vùng bờ lõm phía bắc của dòng chảy mới, thu hút một số lớn bang thương nhân từ Huy Châu, Sơn Tây, Giang Tây đến kinh doanh muối, trà, gỗ, thuốc chữa bệnh và các mặt hàng khác. Khu đô thị ven bờ bắc Hán Thủy trải dài 20 lý, là một trong tứ đại danh trấn đương thời.

Năm Khang Hi thứ 3 (1664) thời Nhà Thanh, Hồ Quảng bố chính sứ ti được phân thành tả và hữu bố chính sứ ti, đến năm Khang Hi thứ 6 (1667), Hồ Quảng tả và hữu bố chính sử ti đổi tên thành Hồ Bắc bố chính sứ ti và Hồ Nam bố chính sứ ti. Hồ Bắc và Hồ Nam ổn định về ranh giới và tên gọi từ đó. Hồ Bắc đặt trị sở tại Vũ Xương. Thời Thanh, ban đầu tỉnh Hồ Bắc được phân thành 8 phủ là Vũ Xương, Hán Dương, Hoàng Châu, An Lục, Đức An, Kinh Châu, Tương Dương, Vân Dương, đến cuối thời Thành thì tỉnh Hồ Bắc tổng cộng có 10 phủ là Vũ Xương, Hán Dương, Kinh Châu, Tương Dương, Hoàng Châu, An Lục, Đức An, Vân Xương, Nghi Xương, Thi Nam và Kinh Môn trực lệ châu.

Năm 1860, Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai kết thúc, tư bản ngoại quốc đổ vào các khu vực ven Trường Giang, Hán Khẩu trở thành một thương cảng hiệp ước, theo đó thiếp lập tô giới Anh tại Hán Khẩu ở hạ du thị trấn cũ. Từ năm 1895 đến 1898, lại tiếp tục thiết lập tô giới Đức tại Hán Khẩu, tô giới Nga tại Hán Khẩu, tô giới Pháp tại Hán Khẩu, tô giới Nhật tại Hán Khẩu. Ngoài ra, vào các năm 1877 và 1896, Nghi Xương và Sa Thị cũng trở thành các thương cảng hiệp ước.

Trong cùng thời kỳ đó, Dương Vụ vận động (洋务运动, nghĩa là phong trào Tây hóa) đã nổi lên, tổng đốc Hồ Quảng Trương Chi Động khi nhậm chức đến Hồ Bắc đã cho thiết lập một số lượng lớn các xí nghiệp theo kiểu Tây, như xưởng luyện thép Hán Dương, xưởng công binh Hán Dương. Ông cũng đã thành lập Xưởng dệt tứ cục Hồ Bắc bao gồm dệt vải, kéo sợi, ươm tơ, chế biến gai. Ông còn lập kế hoạch xây dựng đường sắt Lô Hán (sau đổi tên là Kinh Hán, xây dựng từ năm 1896, hoàn thành năm 1905) nối liền hai miền nam bắc. Hồ Bắc trở thành một trong những tỉnh công nghiệp chủ yếu của Trung Quốc.

Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc, Hồ Bắc không có nhiều thay đổi về mặt hành chính tổng thể, các phủ, châu và thính đều được chuyển thành huyện. Đến năm 1949, Hồ Bắc có 1 thị (Vũ Xương), 8 khu đốc sát hành chính, 69 huyện. Hán Khẩu khi thì là một thành phố thuộc tỉnh, khi thì là một thành phố đặc biệt trực thuộc chính phủ trung ương. Từ năm 1927 trở đi, Cộng sản đảng bắt đầu tiến hành cách mạng vũ trang, thiết lập các chính quyền Xô viết. Đầu năm 1927, một thời gian ngắn trước khi Tưởng Giới Thạch chiếm giữ được Thượng Hải và chuyển thủ đô về Nam Kinh, phe cánh tả trong Quốc Dân đảng Uông Tinh Vệ đã tuyên bố thủ đô của chính quyền Dân quốc là Vũ Hán. Trong khi cố gắng chỉ đạo chính phủ từ Vũ Hán, Uông đã cộng tác chặt chẽ với những nhân vật cộng sản hàng đầu, bao gồm Mao Trạch Đông, Trần Độc Tú, và Mikhail Markovich Borodin. Tưởng Giới Thạch chiếm được Thượng Hải vào tháng 4 năm 1927, và bắt đầu một cuộc đàn áp đẫm máu đối với cộng sản gọi là thanh đảng. Trong vòng vài tuần lễ Tưởng đàn áp cộng sản tại Thượng Hải, chính phủ cánh tả của Uông đã bị một quân phiệt liên kết với Quốc Dân đảng tấn công và bị tan rã, điều này đã khiến Tưởng Giới Thạch trở thành lãnh đạo hợp pháp duy nhất của Trung Hoa Dân quốc. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nửa phía đông của Hồ Bắc bị quân Nhật xâm chiếm trong khi nửa phía tây vẫn nằm trong tay các lực lượng Trung Quốc.

Trong Cách mạng Văn hóa, Vũ Hán là một trong những trọng điểm hoạt động của Hồng vệ binh. Do lo ngại có thể xảy ra chiến tranh hạt nhân trong thời điểm các xung đột biên giới Trung-Xô vào cuối thập niên 1960, chính quyền Trung Quốc khi đó đã lựa chọn Hàm Ninh làm nơi để xây dựng công trình 131, tên gọi "131" này là do nó được quyết định xây dựng vào ngày 31 tháng 1 năm 1969. Hệ thống đường hầm được thường thuật là dài 456 mét, và có chi phí xây dựng là 130 triệu NDT với mục đích sẽ trở thành trung tâm đầu não của đất nước khi chiến tranh hạt nhân xảy ra. Hồ Bắc nói chung và Vũ Hán nói riêng đã phải hứng chịu ảnh hưởng nặng nề của các trận lụt Trường Giang vào năm 1954. Sau đó, các dự án xây đập quy mô lớn đã được triển khai, đập Cát Châu Bá (葛洲坝) trên Trường Giang đã bắt đầu được xây dựng từ năm 1970 và hoàn thành vào năm 1988; việc xây dựng đập Tam Hiệp ở xa hơn về thượng nguồn đã bắt đầu vào năm 1993 và ngoại trừ thang nâng tàu, đập này đã hoàn thành với đầy đủ chức năng vào tháng 4 năm 2012.[6][7] Công trình đập Tam Hiệp đã khiến 1,3 triệu cư dân phải di dời, nó trị giá 60 tỷ USD và là công trình thủy điện lớn nhất thế giới.[8]

Hồ Bắc thuộc khu vực Hoa Trung, do nằm ở phía nam giới tuyến "Tần Lĩnh-Hoài Hà" nên Hồ Bắc thuộc miền Nam Trung Quốc. Đồng bằng Giang Hán chiếm phần lớn trung bộ và đông bộ của Hồ Bắc, cùng với đồng bằng hồ Động Đình của Hồ Nam tạo thành một dải đồng bằng thống nhất. Trên vùng tây bộ và các vùng giáp ranh của Hồ Bắc thì có địa hình nhiều đồi núi hơn. phía tây Hồ Bắc, gần như theo thứ tự từ bắc xuống nam, là các dãy Vũ Đang Sơn, Kinh Sơn (荆山), Đại Ba Sơn (大巴山), Vu Hiệp (巫峡). Dãy Đại Biệt Sơn nằm ở phía đông bắc đồng bằng Giang Hán, tại vùng giáp giới giữa Hồ Bắc với hai tỉnh Hà Nam và An Huy. Dãy Đồng Bách Sơn (桐柏山) nằm ở phía bắc, trên ranh giới giữa Hồ Bắc và Hà Nam. Ở phía đông nam, dãy Mạc Phụ Sơn (幕阜山) tạo thành ranh giới giữa Hồ Bắc và Giang Tây. Đỉnh cao nhất tại Hồ Bắc là đỉnh Thần Nông (神农顶) với cao độ 3.105 m thuộc Đại Biệt Sơn và nằm trên địa phận của lâm khu Thần Nông Giá. Núi non chiếm 55,5% diện tích toàn tỉnh, vùng gò đồi và đồng ruộng chân đồi chiếm 24,5%, vùng đồng bằng và hồ chiếm 20%.

Hai sông lớn tại Hồ Bắc là Trường Giang và phụ lưu tả ngạn của nó là Hán Thủy, đồng bằng Hán Thủy lấy theo tên của hai con sông này. Trường Giang tiến vào Hồ Bắc từ phía tây qua Tam Hiệp, tổng chiều dài đoạn chảy qua Hồ Bắc là 1061 km; nửa phía đông của Tam Hiệp, tức Tây Lăng Hiệp (西陵峡) và một phần Vu Hiệp, nằm ở tây bộ của Hồ Bắc, trong khi nửa phía tây của Tam Hiệp thuộc về Trùng Khánh. Hán Thủy tiến vào Hồ Bắc từ tây bắc, đoạn chảy qua Hồ Bắc dài 878 km. Sau khi chảy qua một đoạn lớn trên địa bàn Hồ Bắc, hai sông này hợp dòng tại tỉnh lị Vũ Hán. Trường Giang chảy dọc theo chiều đông-tây của tỉnh, Hồ Bắc nằm ở cả hai bên sông ngoài một đoạn khi sông tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Hồ Nam và Hồ Bắc. Trong số các chi lưu nổi tiếng của Trường Giang, có suối Thần Nông (神农溪), song nó đã bị ảnh hưởng từ công trình đập Tam Hiệp; sông Thanh (清江), một tuyến thủy đạo chính ở tây nam Hồ Bắc; sông Hoàng Bách (黄柏河) gần Nghĩa Xương; và Phú Thủy (富水) ở phía đông nam tỉnh.

Có hàng nghìn hồ nước nằm rải rác tại vùng đồng bằng Giang Hán của Hồ Bắc, vì thế tỉnh còn có biệt hiệu là "vùng hồ Hoa Trung" (华中屋脊). Các hồ lớn nhất trong số đó là hồ Lương Tử (梁子湖; 304,3 km²) và Hồng Hồ (洪湖, 348 km²). Nhiều đập thủy điện đã tạo nên các hồ chứa lớn, lớn nhất trong số đó là hồ chứa Đan Giang Khẩu (丹江口水库) trên Hán Thủy, ở ranh giới giữa Hồ Bắc và Hà Nam. Đông Hồ ở Vũ Hán với diện tích 33,7 km² là hồ đô thị lớn nhất Trung Quốc, diện tích gấp 6 lần Tây Hồ của Hàng Châu.

Hồ Bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Cfa hay Cwa theo phân loại khí hậu Köppen), với bốn mùa rõ rệt. Mùa đông tại Hồ Bắc mát hoặc lạnh, với nhiệt trung bình là 1 đến 6 °C (34 đến 43 °F) vào tháng giêng, trong khi mùa hè nóng và ẩm, với nhiệt độ trung bình là 24 đến 30 °C (75 đến 86 °F) vào tháng 7; tỉnh lị Vũ Hán đôi khi có nhiệt độ lên đến 40 °C (104 °F) hoặc cao hơn. Các khu vực núi non ở phía tây Hồ Bắc, đặc biệt là Thần Nông Giá, có mùa hè mát mẻ hơn, vì thế đã thu hút nhiều du khách từ Vũ Hán và các thành phố vùng thấp khác.

Năm 2011, số nhân khẩu thường trú của tỉnh Hồ Bắc là 57,6 triệu người, trong đó nam có 29,56 triệu người (51,34%), nữ là 28,02 triệu người (48,66%). Số người trong độ tuổi 0-14 tuổi là 7,99 triệu người (13,88%), từ 15-64 tuổi là 44,33 triệu người (77%), số người trên 65 tuổi là 5,25 triệu người (9,12%). Năm 2010, tuổi thọ bình quân của cư dân Hồ Nam là 75,9 năm. Riêng công trình đập Tam Hiệp đã khiến 1,3 triệu cư dân phải tái định cư.[8] Dân cư Hồ Bắc tập trung cư trú tại đồng bằng Giang Hán.

Tỉnh Hồ Bắc có thành phần dân tộc đa dạng. Theo tổng điều tra nhân khẩu lần thứ 6 vào năm 2010, số người thuộc các dân tộc thiểu số tại Hồ Bắc là 2.468.500 người người, chiếm 4,31% tổng dân số toàn tỉnh. Trong số các dân tộc thiểu số, những dân tộc có dân số trên 10.000 người tại Hồ Bắc là người Thổ Gia (2,1 triệu), người Miêu (177.000), người Hồi (67.000), người Động (52.000), người Mãn (13.000), người Choang (12.000) và người Mông Cổ (~10.000). Tỉnh Hồ Bắc có châu tự trị Ân Thị của người Thổ Gia và Miêu, 2 huyện tự trị là Trường Dương và Ngũ Phong của người Thổ Gia, ngoài ra còn có 12 hương trấn dân tộc của các dân tộc Hồi, Thổ Gia, Động, Bạch và 20 thôn/nhai dân tộc. Tổng diện tích các khu vực tự trị dân tộc của Hồ Bắc là 30.000 km², chiếm khoảng 1/6 diện tích của tỉnh; tổng dân số của các địa phương tự trị dân tộc là 3,87 triệu, chiếm 6,76% tổng dân số toàn tỉnh.[10]

Cư dân Hồ Bắc chủ yếu nói Quan thoại tây nam, Quan thoại Giang Hoài và tiếng Cám.

Hồ Bắc được chia ra 13 đơn vị cấp địa khu (trong đó có 12 địa cấp thị và 1 châu tự trị), cũng như 3 phó địa cấp thị là các đô thị cấp huyện trực thuộc và một lâm khu cấp huyện trực thuộc.

Các đơn vị trên được chia ra thành 102 đơn vị cấp huyện (38 quận nội thành, 24 thành phố cấp huyện, 37 huyện, 2 huyện tự trị, một lâm khu). Các đơn vị này lại được chia ra thành 1234 đơn vị cấp hương (737 trấn, 215 hương, 9 hương dân tộc và 273 nhai đạo).

Nắm 2011, tổng GDP của Hồ Bắc là 1,96 nghìn tỉ NDT, tăng trưởng 13,8% so với năm trước đó và là năm thứ 8 liên tục tăng trưởng hai con số. Trong đó, khu vực một của nền kinh tế đạt giá trị 256,9 tỉ NDT, tăng trưởng 4,4%; khu vực hai của nền kinh tế đạt giá trị 981,9 tỉ NDT, tăng trưởng 17,9%; khu vực ba của nền kinh tế đạt giá trị 853,8 tỉ NDT, tăng trưởng 19,1%. Tỉ lệ giữa ba khu vực của nền kinh tế biến đổi từ 13,6:49,1:37,3 vào năm 2009 thành 13,1:50,1:36,8 vào năm 2011.[10]

Hồ Bắc là khu vực quá độ giữa nền nông nghiệp sản xuất lúa mì ở phía bắc và nền nông nghiệp sản xuất lúa gạo ở phía nam, vì thế có thể trồng một vụ lúa gạo, một vụ lúa mì. Đặc biệt, ở nam bộ Hồ Bắc, còn trồng thêm được vụ màu thứ ba, do vậy sản lượng nông nghiệp ở mức cao. Do Hồ Bắc có nhiều hồ, nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của tỉnh, và là một trong ba tỉnh nuôi trồng thủy sản nước ngọt lớn nhất Trung Quốc. Ngoài ra, nguồn lợi thủy sản tại Trường Giang cũng phong phú. Hồ Bắc thường được gọi là "ngư mễ chi hương" (鱼米之乡), nghĩa đen là vùng đất của cá và gạo, nghĩa bóng có nghĩa là vùng đất sung túc. Các loại nông sản có thế mạnh khác của Hồ Bắc là bông và trà. Năm 2011, giá trị nông lâm mục ngư nghiệp của Hồ Bắc đạt 256,9 tỉ NDT, tăng trưởng 4,4% so với năm trước. Tổng sản lượng lương thực đạt 23,89 triệu tấn, liên tục 8 năm liền được mùa, so với năm trước thì sản lượng tăng 3,14%.[10]

Các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ tại Hồ Bắc cũng đạt được những bước phát triển nhất định, giá trị sản lượng công nghiệp chiếm hơn một nửa tổng GDP. Trong đó, các ngành công nghiệp nặng tập trung nhiều tại Vũ Hán, Nghi Xương, Hoàng Thạch, Tương Dương và Thập Yển. Các công ty, tập đoàn lớn của Trung Quốc đặt trụ sở tại Hồ Bắc có thể kể đến như Công ty Tập đoàn Gang thép Vũ Hán (Wuhan Iron and Steel), Công ty Ô tô Đông Phong (Dongfeng Motor). Năm 2011, giá trị quy mô ngành công nghiệp toàn tỉnh Hồ Bắc là 856 tỉ NDT, so với năm trước tăng tới 226 tỉ NDT, đạt tốc độ tăng trưởng 20,5%. Các mặt hàng công nghiệp chính của Hồ Bắc là ô tô, sắt thép, hóa dầu, chế biến thực phẩm, thông tin điện tử, dệt may, sản xuất thiết bị và vật liệu xây dựng. Trong năm 2011, đã có 339 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới được phê duyệt; với số vốn ký kết đạt 4,97 tỷ USD, số vốn giải ngân trên thực tế là 4,66 tỷ USD.[10]

Hồ Bắc là tỉnh có tài nguyên khoáng sản phong phú, trên toàn tỉnh đã phát hiện được 136 chủng loại khoáng sản, chiếm khoảng 81% chủng loại khoáng sản đã được tìm thấy tại Trung Quốc. Trong đó đã xác minh được trữ lượng của 87 chủng loại khoáng sản, chiếm 56% của cả nước. Theo biểu trữ lượng khoáng sản tỉnh Hồ Bắc, tỉnh có 956 khu khai khoáng, 1287 điểm khoáng sản. Một số loại khoáng sản trên địa bàn Hồ Bắc là borac, wollastonite, đá thạch lựu, marl, sắt, phosphor, đồng, thạch cao, rutile, thạch diêm, hỗn hợp vàng, mangan, vanadi và hongshiite (có chứa đồng và bạch kim), đá vôi. Trữ lượng than đá có thể khai thác của Hồ Bắc là 548 triệu tấn, khá khiêm tốn so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Ngoài ra, Hồ Bắc cũng có các mỏ ngọc lam nguyên chất và faustite lục (một loại khoáng sản có chứa nhôm, đồng, hydro, oxy, phosphor, và kẽm).

Khi hoàn thành, đập Tam Hiệp là công trình thủy điện hàng đầu thế giới. Tổng công suất phát điện của công trình này là 22.500 MW.[11][12] Cùng với chức năng sản xuất điện, công trình còn giúp ngăn lũ lụt, tăng cường năng lực vận chuyển ở vùng hạ du của Trường Giang.[13] Một số đập thủy điện khác tại Hồ Bắc là đập Cát Châu Bá (葛洲坝水利枢纽), đập Đan Giang Khẩu (丹江口大坝), đập Cách Hà Nham (隔河岩大坝), đập Phú Thủy (富水大坝).

Năm 2018, Hồ Bắc là tỉnh đông thứ chín về số dân, đứng thứ bảy về kinh tế Trung Quốc với 59 triệu dân, tương đương với Ý[14] và GDP đạt 3.937 tỉ NDT (594,9 tỉ USD)[15] tương ứng với Đài Loan.[16] Năm 2010, GDP Hồ Bắc đứng hạng 11/31, đến năm 2018 xếp hạng bảy, tốc độ tăng trưởng năm 2018 đạt tớn 7,8%.[17] GDP bình quân đạt 9.917 USD/người. Đó cũng là thành quả bởi nỗ lực chỉ đạo kinh tế của Lý Hồng Trung, Vương Quốc Sinh hay Vương Hiểu Đông giai đoạn 2007 đến nay, và cũng là lý do bầu nhiệm, tin tưởng và thăng cấp.

Đối với Hồ Bắc, tỉnh có vị trí kinh tế đáng chú ý. Tỉnh Hồ Bắc ở miền trung Trung Quốc, khu Hoa Trung, tại ngã ba Vành đai kinh tế sông Dương Tử từ đông sang tây vành đai kinh tế đường sắt Bắc Kinh – Quảng Châu từ bắc xuống nam. GDP của Hồ Bắc kể từ năm 2015 đứng thứ nhì trong số sáu tỉnh ở miền Trung. Đây là nơi có trung tâm giao thông toàn diện lớn nhất ở miền Trung, sở hữu những lợi thế mạnh mẽ trong khu vực, bao gồm có các tổ chức giáo dục và khoa học mạnh, giàu tài nguyên thiên nhiên, có cơ sở hạ tầng giao thông và truyền thông tốt, các cơ sở công nghiệp mạnh. Trung ương vì thế đã phê duyệt kế hoạch tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế miền Trung, và lãnh tụ Tập Cận Bình đã thúc giục Hồ Bắc trở thành trụ cột trong sự trỗi dậy của miền Trung trong chuyến thăm tỉnh năm 2013. Hồ Bắc đã và đang tập trung vào phát triển các ngành sản xuất tiên tiến và mới nổi, thúc đẩy mạng lưới và số hóa thông minh ngành sản xuất, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân với sự trợ giúp của các công nghệ tiên tiến và Internet. Từ năm 2016, Hồ Bắc được phép thành lập Khu vực thương mại tự do với mục tiêu đảm bảo di chuyển công nghiệp có trật tự sang các khu vực trung tâm, thành lập một nhóm các cơ sở công nghiệp cho các ngành công nghiệp công nghệ cao và mới nổi, và là tiêu điểm cho việc thực hiện "Chiến lược phát triển khu vực miền Trung" và phát triển vành đai kinh tế sông Dương Tử.[18] Và đối với Hồ Bắc nói riêng, Hoa Trung nói chung, Thành phố phó tỉnh Vũ Hán là trái tim kinh tế.

Đến cuối năm 2011, tổng chiều dài đường sắt của Hồ Bắc là 3.340 km. Cũng trong năm này, mạng lưới đường sắt Hồ Bắc đã vận chuyển được 85 triệu lượt người, và vận chuyển được 100,59 triệu tấn hàng hóa. Các tuyến đường sắt trên địa bàn Hồ Bắc là:

Trong năm 2011, mạng lưới công lộ của Hồ Bắc đã vận chuyển được 1,05 tỉ triệu lượt hành khách và vận chuyển được 827,4 triệu tấn hàng hóa. Tính đến năm này, toàn tỉnh Hồ Bắc có 4007 km đường bộ cao tốc.

Trong năm 2011, hệ thống giao thông đường thủy của tỉnh Hồ Bắc đã vận chuyển được 3,48 triệu lượt hành khách, vận chuyển được 173,58 triệu tấn hàng hóa. Trong đó, hai tuyến thủy đạo chính là Trường Giang và Hán Thủy. Tại Hồ Bắc có trên 20 cầu vượt Trường Giang.

Năm 2011, chi nhánh Hồ Bắc của ba công ty lớn là Air China, China Eastern Airlines và China Southern Airlines đã vận chuyển được 9,1 triệu lượt hành khách, khối lượng hàng hóa vận chuyển là 94.300 tấn. Hồ Bắc có bốn sân bay dân dụng lớn và trung bình là: sân bay quốc tế Thiên Hà Vũ Hán (sân bay trung tâm của vùng Hoa Trung), sân bay Tam Hiệp Nghi Xương, sân bay Lưu Tập Tương Phàn, sân bay Hứa Gia Bình Ân Thi

Thủ phủ Vũ Hán của tỉnh Hồ Bắc là một trong 5 trung tâm giáo dục lớn nhất Trung Quốc.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bộ Giáo dục nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là cơ quan của Quốc vụ viện điều chỉnh tất cả các khía cạnh của hệ thống thuộc ngành giáo dục ở Trung Quốc đại lục, bao gồm cả giáo dục cơ bản bắt buộc, giáo dục nghề nghiệp, và đại học – cao đẳng. Bộ Giáo dục chứng nhận các giáo viên, tiêu chuẩn hóa các chương trình học và sách giáo khoa, thiết lập các chuẩn mực, và giám sát toàn bộ hệ thống giáo dục trong nỗ lực "hiện đại hóa Trung Quốc qua giáo dục". Trụ sở chính của MOE đặt tại Tây Đơn, Tây Thành, Bắc Kinh.[1] MOE nhấn mạnh giáo dục kỹ thuật đối với các môn học khác.

MOE được thành lập năm 1949 với tư cách là Bộ Giáo dục của Chính phủ Nhân dân Trung ương, và được đổi tên thành Ủy ban Giáo dục Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ 1985 đến 1998. Tên gọi hiện nay của MOE được dùng trong thời gian tái cơ cấu của Quốc vụ viện Trung Quốc năm 1998.