Chính Sách Dân Tộc Của Đảng Nhà Nước Việt Nam Về Chính Trị Hiện Nay Là

Chính Sách Dân Tộc Của Đảng Nhà Nước Việt Nam Về Chính Trị Hiện Nay Là

Tại phiên họp tổng kết hoạt động của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Ngày 28-11-2013, với tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội tán thành, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị, pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập pháp của nước ta, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của các vị đại biểu Quốc hội, phản ánh được ý chí nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân".

Chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa đối với các dân tộc người thiểu số

Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật […]

Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Ai là thành phần có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển của các dân tộc thiểu số nói chung và văn hóa nói riêng nếu như không phải là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Văn hóa là quan điểm, là nội dung chính sách, là hệ quả kiểm chứng thước đo của các loại hình chính sách (kinh tế, xã hội, môi trường, cán bộ, an ninh, quốc phòng….) của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số. Vì lẽ đó mà chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa có một v

Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Đó là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cộng đồng 54 dân tộc (1 dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số) sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái riêng được bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc – cơ sở để giữ vững sự bình đẳng  và đại đoàn kết các dân tộc và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ dành độc lập dân tộc, trong xây dựng đất nước thời bình, hội nhập và phát triển toàn cầu hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn ý thức và coi trọng văn hóa quốc gia, văn hóa tộc người trong phát triển. Đồng thời với các quan điểm, chính sách giải quyết các vấn đề quân sự, kinh tế, ngoại giao… thì văn hóa được nhìn nhận với tư cách là “soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh). Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận của văn hóa quốc gia, là kho vốn vô giá tạo dựng đặc điểm văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa các dân tộc thiểu số là tài nguyên tạo nên động lực tinh thần mạnh mẽ trong công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay. Qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong thời kỳ đối mới từ 1986 đến nay Đảng và Nhà nước đã ngày càng có những chính sách cụ thể sát hợp về văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng gần đây tiếp tục khẳng định và làm rõ: “Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hoá, con người. Mọi hoạt động văn hoá, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hoá; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số, văn hoá tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hoá,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.”

53 dân tộc thiểu số với kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, phong phú và đa dạng bao gồm: Kiến trúc, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, dân ca, dân nhạc, dân vũ,… có thể xem văn hóa các dân tộc thiểu số như “bức tranh thổ cẩm” được chính đồng bào thêu dệt tinh tế và tươi màu rực rỡ bởi những nét văn hóa đậm đà bản sắc của chính cộng đồng dân tộc mình. Đời sống kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời gian 15 năm qua đã từng bước được nâng cao do có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách đặc thù, tuy vậy vùng miền núi và dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém. Mặc dù đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của cả nước, song 53 dân tộc thiểu số với rất nhiều nét văn hóa đặc sắc, phong phú từ đó góp phần tạo nên đời sống  văn hóa bản sắc và sinh động.

Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa cũng như công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, trong 15 năm qua các nhiệm vụ đặt ra trong Nghị quyết đã được đồng bộ triển khai và đạt được những hiệu quả rất đáng khích lệ. Đối với công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có những bước tiến quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao lưu và giao thoa văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ, nhưng vẫn đảm bảo tiên tiến, đậm đà bản sắc.

Trong thời ký đổi mới, vấn đề văn hóa quốc gia nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng được Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII định hướng và tạo nên luông sinh khí mới chấn hưng các giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc. Các bộ, ban ngành chức năng, chính quyền các cấp đã triển khai, cụ thể các quan điểm, nhiệm vụ thành nhiều chính sách văn hóa cụ thể nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch) đã cụ thể thành những nhiệm vụ trọng tâm về công tác văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số miền núi thể hiện qua hệ thống văn bản trọng tâm trong từng giai đoạn. Các vấn đề chính sách được tập trung vào các vấn đề:

–  Công tác Văn hóa – Thông tin, Đề án xe văn hóa – thông tin lưu động tổng hợp, Công tác văn hóa thông tin biên giới, bờ biển, vùng Tây Nguyên, vùng đổng băng sông Cửu Long, 6 tỉnh đặc biệt khó khăn  miền núi phía Bắc;

– Xây dựng huyện điểm ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số;

– Bảo tồn làng, bản buôn các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn;

– Đề án bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số;

– Phủ sóng phát thanh, truyền hình vùng dân tộc thiểu số;

– Bảo tồn tiếng nói chữ viết các dân tộc;

– Đưa các ấn phẩm, hoạt động văn hóa vào vùng đồng bào các dân tộc;

– Thành lập các hội nghiên cứu, bảo tồn văn hóa, văn nghệ các dân tộc;

– Thành lập các thiết chế văn hóa, bảo tàng Văn hóa các dân tộc;

– Phát triển du lịch văn hóa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số;

– Đào tạo tri thức, nguồn lực con người các dân tộc thiểu số;

– Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số…

– Coi  trọng và phát huy vai trò của người dân – chủ thể của văn hóa.

Nhìn chung các chính sách văn hóa trên được các Bộ ban ngành, cơ quan Trung ương, chính quyển các cấp quan tâm triển khai và mang lại hiệu quả quan trọng, tạo nên diện mạo mới của văn hóa các dân tộc thời kỳ đổi mới với những thành quả được đánh giá trong văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước và các địa phương. Tuy nhiên bên cạnh đó đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần được quan tâm tâm trong giai đoạn mới.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số còn nhiều thực trạng cần được khắc phục nhằm thực hiện tốt hơn trong thời gian tới, trong đó có thể nêu lên một số thực trạng cấp bách như sau:

Việc điều tra, nắm bắt thực trạng về di sản văn hóa các tộc người thiểu số và vùng miền chưa thường xuyên, chưa kịp thời đầy đủ, chưa xây dựng được bản đồ quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các tộc người và vùng miền sát thực cho từng giai đoạn nên còn mang tính định hướng chung, thiếu tính định lượng cụ thể…

Chưa thể chế hóa những chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống các tộc thiểu số, đặc biệt là những dân tộc có số dân rất ít hoặc ở những  vùng đặc biệt khó khăn đang có nguy cơ cao bị đồng hóa, mất bản sắc…

Có nhiều di sản văn hoá đặc sắc của các tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, lập hồ sơ để tôn vinh công nhận là là di sản cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia; đa số nghệ nhân của các tộc thiểu số chưa được quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện để phát huy trong việc  bảo tồn những di sản văn hóa mà họ là người nắm giữ nên nhiều giá trị truyền thống  nằm trong những “di sản sống”  đó lần lượt mất đi theo năm tháng…

Việc phục dựng một số sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội…) của các dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương theo kiểu “sân khấu hóa” tuy có tạo ra được không khí và dư luận trong quần chúng về việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nhưng lại có thể  làm biến dạng, méo mó phần nào giá trị của di sản…

Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa các dân tộc thiểu số theo nhiều mô hình, cấp độ  tuy có lúc có nơi được chú ý, người dân hoan nghênh, phấn khởi nhưng khi có một vài ý kiến cho rằng “quá nhiều” lễ hội lại bị “co” lại khiến không ít người băn khoăn về số phận của những di sản đã và đang có nguy cơ bị lãng quên… Nhiều giá trị văn hóa truyền thống chưa được giới thiệu quảng bá để  trả về với chủ thể sáng tạo ra nó là đồng bào các dân tộc nên việc phát huy tác dụng xã hội còn hạn chế…

Việc sử dụng, phát huy và xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là cán bộ  người các tộc thiểu số tuy có được chú ý hơn nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của phong trào, chưa theo quy hoạch lâu dài và ổn định;

Việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số có nhiều cố gắng, mức hưởng thụ của đồng bào về văn hóa được cải thiện nhưng còn nhiều hạn chế  về mặt bằng về hưởng thụ văn hóa; các thiết chế văn hóa truyền thống chưa được nghiên cứu để bảo tồn, phát huy

Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, có lúc, có nơi chưa thống nhất, đồng bộ nên nhiều phong trào thiếu tính thiết thực, chưa thật sự thấm sâu vào các lĩnh vực đời sống xã hội.

Vùng dân tộc và miền núi, tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, một số tập tục lạc hậu có xu hướng phát triển. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số chưa được phát huy đúng mức, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào còn thấp.

Nguồn lực đầu tư để bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số mỏng, mang tính bình quân, dàn trải, phân tán, nhỏ giọt thiếu kịp thời, tập trung, đồng bộ. Một số chủ trương, kế hoạch, dự án đã xây dựng và phê duyệt không được thực hiện hoặc chậm  tiên độ, không  đến nơi đến chốn, hiệu quả không cao.

Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản, thống nhất, chưa được tôn vinh xứng đáng;

Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số còn quá nghèo nàn, lạc hậu.

Phong trào văn hoá, văn nghệ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số chưa phát triển đồng đều cả về số lượng và chất lượng. Nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động cầm chừng do thiếu cán bộ có kinh nghiệm tổ chức và hiểu biết nghiệp vụ, chưa có sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước nên khó phát triển bền vững.

Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở đa số chưa được quy hoạch, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nên trình độ còn hạn chế, hiệu quả công tác chưa cao.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở vùng dân tộc thiểu số, xây dựng làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn, gia đình văn hóa còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng chưa cao do nhiều nguyên nhân: nghèo, địa bàn khó khăn, phức tạp, còn dập khuôn, máy móc, cứng nhắc, các tiêu chí chưa chú ý đến đặc điểm văn hóa truyền thống, thiếu vận dụng linh hoạt sáng tạo cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng dân tộc…

Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta là một bộ phận quan trọng, tất yếu của việc xây dựng, bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên trong xu thế, vận động, phát triển của đất nước các vấn đề chính sách không chỉ được soi sáng bởi các quan điểm của Đảng mà còn chịu tác động của nhiều yêu tố văn hóa, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Đây cũng là thực trạng đặt ra nhiều vấn về lý luận và thực tiến cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Đó cũng là yêu cầu đặt ra đối với ngành Khoa học xã hội và Nhân văn, của viện Hàn lâm KHXH và cơ quan ban ngành hữu quan. Vấn đề cần được sự quan tâm hợp tác nghiên cứu cùa các nhà khoa học và quản lý trong những năm tới với cái nhìn đổi mới trong tư duy quản lý khoa học, hợp tác nghiên cứu mới có được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra./.

Tiếp theo Chương trình làm việc tại Phiên họp thứ 38, sáng 8/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035.

Xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác xây dựng môi trường văn hóa cần căn cứ vào các đặc điểm riêng của từng địa phương. Những đặc điểm này đòi hỏi phải có chính sách, nguồn lực và phương thức phù hợp.

Phú Yên nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi. Với vị trí địa lý đặc biệt, nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và hệ thống di sản văn hóa phong phú tạo tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển kinh tế du lịch. Thời gian qua, du lịch Phú Yên đang quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở, nỗ lực thực hiện xúc tiến, quảng bá du lịch, từng bước hình thành thương hiệu, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và du khách trong và ngoài nước. Vùng đất “hoa vàng trên cỏ xanh” hiện đang được ví như một “nàng công chúa đang thức giấc” với nhiều tiềm năng, lợi thế vốn có đang được khai thác, bảo tồn để phát triển du lịch. Hiện nay, Phú Yên đang là điểm đến được nhiều du khách chọn lựa trong hành trình du lịch vùng Nam Trung Bộ.

Được sự đồng ý của Chính phủ về việc mở cửa hoàn toàn hoạt động hàng không, xuất nhập cảnh và du lịch quốc tế, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã thông tin những điểm mới nhất trong phương án đề xuất dự kiến áp dụng từ ngày 15/03/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi công bố chính thức. Đây là tín hiệu rất khả quan với nền kinh tế-xã hội và ngành du lịch nước nhà nhưng vẫn còn đó không ít thách thức, đòi hỏi những giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả khi triển khai, thực hiện chủ trương kịp thời và đúng đắn này.

Nằm ở trung tâm khu vực trung du và miền núi phía Bắc, Yên Bái là trung điểm của tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai kết nối tới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Bắc Bộ; là điểm giữa của tuyến đường sắt liên vận trên hành lang giao thương kinh tế quốc tế kết nối các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh qua Côn Minh, Trung Quốc đến các nước Đông Bắc Á, Châu Âu và các nước ASEAN;  giữ vai trò bản lề mở ra tiểu vùng kinh tế – du lịch trọng điểm Tây Bắc phía hữu ngạn sông Hồng và Đông Bắc phía tả ngạn sông Hồng.

Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 53 DTTS, với 14,123 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Quy mô dân số không đồng đều, có 06 dân tộc trên 01 triệu người, 14 dân tộc dưới 10.000 người, trong đó có 05 dân tộc dưới 1.000 người (Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo và Si La). Hầu hết các DTTS sinh sống ở miền núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa và tập trung chủ yếu ở một số tỉnh khu vực miền Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nam bộ. Cùng với việc hoạch định chính sách chung cho cả nước, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách cho vùng DTTS và miền núi, luôn xác định công tác dân tộc, đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đẩy nhanh phát triển về mọi mặt đối với vùng DTTS và miền núi, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551 xã khu vực III, với 3.434 xã, phường, thị trấn thuộc vùng DTTS và miền núi; nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, để từng bước nâng cao đời sống phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Vì vậy, ngày 21/02/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ thông tin tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo, với mục đích đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về dân tộc và truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, những giá trị của tôn giáo đối với đời sống xã hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Một số chính sách lớn được ban hành

Trong thời kỳ đổi mới, việc nhận thức về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã có bước đột phá, tạo cơ hội, tiền đề và hiệu quả về chất so với các thời kỳ trước. Từ Đại hội VI của Đảng (1986), công tác dân tộc từng bước hòa nhập vào công cuộc đổi mới đất nước. Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác dân tộc. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) miền núi; Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển KT-XH miền núi. Hai văn kiện này đã mở đường cho sự đổi mới về công tác dân tộc. Quan điểm định hướng nội dung về công tác dân tộc trong giai đoạn mới được Đảng đánh giá, nhìn nhận một cách khoa học, khách quan: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tượng trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc”(2).

Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có nêu: “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc… chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc” (3).

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020.

Chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam đã được đề cập, phát triển qua từng giai đoạn, thể hiện ở các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Trong Hiến pháp năm 2013, tại các Điều có nêu như: Điều 5, Khoản 2 “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”;  Khoản 4 “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; Điều 58, Khoản 1 “…có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn”; Điều 61, Khoản 3 “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn…”; Điều 70, Khoản 5 “…Quốc hội quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước”.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiều chính sách lớn về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi đã được ban hành thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các văn bản chỉ đạo như Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIV đã phê duyệt Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1014/QĐ-TTg ngày 14/7/2020 về thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Nhiều kết quả quan trọng trong triển khai chính sách

Những năm qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS và miền núi trong tình hình mới. Nhiều chương trình như Chương trình 135, cùng các chương trình MTQG, các chương trình mục tiêu về y tế, văn hóa, xã hội; các chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm… hỗ trợ máy móc thiết bị, phân bón, giống, cây trồng, vật nuôi; giao đất, giao rừng; khuyến nông, khuyến lâm được quan tâm triển khai thực hiện. Nhờ đó, KT-XH vùng DTTS và miền núi có nhiều chuyển biến tích cực.

Theo báo cáo Tổng kết Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thực hiện trên địa bàn vùng đồng bào DTTS và miền núi của Ủy ban Dân tộc cho thấy: Tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng DTTS và miền núi khá cao, giai đoạn 2016-2018 đạt bình quân 7% và tăng dần hằng năm, cao hơn bình quân chung của cả nước (năm 2016 tăng 6,67% nhưng đến năm 2018 tăng 7,56%, trong đó có 21/52 địa phương có tốc độ tăng trưởng bình quân GDP năm 2018 đạt trên 8%). Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hằng năm. Bình quân toàn vùng DTTS và miền núi giảm 4%/năm, riêng các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) giảm trên 4%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm 5-6%/năm trở lên. Giai đoạn 2015-2019, đã có 8/64 huyện nghèo theo Nghị quyết 36a thoát nghèo; 14/30 huyện nghèo hưởng cơ chế theo Nghị quyết 36a thoát khỏi tình trạng khó khăn, 124/139 xã, 1.322/20.176 thôn ĐBKK ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135; có 1.052/5.266 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, trong đó có 106/2.139 xã ĐBKK đạt chuẩn Nông thôn mới; có 27 huyện thuộc vùng DTTS và miền núi thuộc 31 tỉnh, thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2020, cả nước có 5.506 xã (62%) đạt chuẩn Nông thôn mới.

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình với các đại biểu các dân tộc thiểu số.

Công tác phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực người DTTS luôn được chú trọng quan tâm. Hiện nay, toàn quốc có 316 trường Phổ thông Dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với trên 109.000 học sinh; các chính sách hỗ trợ đào tạo, dạy nghề cho người DTTS được tích cực triển khai thực hiện. Giai đoạn 2016-2020, có trên 800 nghìn người DTTS được đào tạo nghề nghiệp, trong đó có khoảng 412 nghìn lao động nông thôn là người DTTS được hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng theo chính sách của Đề án 1956/QĐ-TTg.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội vùng DTTS và miền núi đã được các bộ, ngành quan tâm, đạt được những thành tựu nhất định. Đời sống văn hóa ở cơ sở có bước cải thiện rõ rệt. Các thiết chế văn hóa được tăng cường, cơ sở vật chất, một số di sản văn hóa của vùng đồng bào các dân tộc được tôn vinh. Các hoạt động giao lưu văn hóa được tổ chức tầm quốc gia, liên vùng, đã góp phần bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc Việt  Nam.

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng DTTS, miền núi và khu vực biên giới không ngừng củng cố và tăng cường. Lực lượng công an tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền vận động đồng bào tham gia thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Lực lượng quân đội, nòng cốt là bộ đội biên phòng đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương vùng DTTS và miền núi triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển KT-XH. Nhiều mô hình, cách làm hiệu quả thiết thực “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc”… đã từng bước thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của đồng bào DTTS.

Trong giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã ưu tiên đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho các huyện nghèo, xã, thôn, bản ĐBKK của vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ với gần 1.700 tỷ đồng, trong đó phải kể đến các chương trình, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào DTTS và miền núi như Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015-2020, điển hình là Chương trình 135, Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới, Chương trình 36a…

Những kết quả được nêu trên đã chứng minh công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Huy động mọi nguồn lực đầu tư để phát triển KT-XH vùng DTTS và miền núi, vùng ĐBKK, đảm bảo phát triển bền vững gắn liền với an sinh xã hội, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS. Thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Phát triển vùng DTTS và miền núi gắn liền với ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, khơi dậy khát vọng, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các DTTS, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng và phát triển.

(1): Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4. tr 250, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội .

(2): Đảng cộng sản Việt Nam (2003, tr 34,35), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

(3): Đảng Cộng sản Việt Nam (2016 tr 36, 37), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Luật sư Hoàng Duy Hùng. Ảnh chụp màn hình VTV.

Tôi rời Việt Nam năm 1975, khi đó tôi 13 tuổi. Lần thứ nhất tôi trở về là năm 1990, lần thứ hai là năm 1991, và lần thứ ba là năm 1992. Lần đó tôi đã bị bắt vì tội âm mưu nhằm lật đổ chính quyền. Và tôi đã bị giam 16 tháng rưỡi tại nhà giam Chí Hòa. Năm 2001, tôi xâm nhập Việt Nam một lần nữa với ý đồ là bạo động, đặt bom nổ tượng Cụ Hồ tại bến Nhà Rồng (TP Hồ Chí Minh), nhưng sau đó tôi từ bỏ ý định. Tôi từng kể về chuyến đi thứ tư này với báo chí (mời đọc bài “Hãy chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước”, Báo Nhân Dân, số ra ngày 29-11-2019). Lần thứ năm tôi trở về là năm 2013, với tư cách là Ủy viên Hội đồng TP Houston (Hiu-xtơn, Mỹ). Và cuối tháng 12-2019 là lần thứ sáu.

Lần nào về Việt Nam tôi cũng thấy khác. Lần thứ nhất, tôi thấy Việt Nam còn rất khó khăn, vì đất nước đang trải qua thời kỳ cấm vận và bị bao vây bởi nhiều thế lực. Nhưng tới năm 2001, thì dần có sự thay đổi, tiến bộ, ví như từ một phần lên tới ba phần. Tới năm 2013 thì ba phần đó đã lên tới sáu phần. Bây giờ thì đã lên tới tám phần. Về Việt Nam lần này tôi chỉ mất một đến hai ngày để quyết định. Vừa đáp xuống Nội Bài, tôi thấy một phi trường quốc tế khác hẳn năm 2013, sạch sẽ hơn, nguy nga hơn, lộng lẫy hơn, không thua kém gì phi trường ở Los Angeles (Lốt An-giơ-lét, Mỹ). Nếu năm 2013 từ Nội Bài về Hà Nội đường sá còn vắng, xa lộ chưa rộng rãi, vẫn còn ổ trâu, ổ gà, thì lần này tôi thấy không còn ổ trâu, ổ gà, đi lại rất thoải mái, lưu lượng xe ngược xuôi không thua kém gì Ku-a-la Lăm-pơ (Ma-lai-xi-a) hay Băng-cốc (Thái-lan). Sự phát triển hạ tầng là rất rõ. Nhưng tôi ngạc nhiên hơn là nhiều căn nhà mới mọc lên cho thấy sự phát triển chóng mặt chứ không còn như trước. Tôi vui mừng vô cùng khi thấy “mẹ Việt Nam” ngày càng lớn mạnh. Trải qua cảnh xa xứ từ trước tới giờ phải nói là tôi rất cô đơn, nhưng hôm nay được về, tôi cảm ơn “mẹ Việt Nam” cho tôi được trở về Hà Nội, Thủ đô của nước Việt Nam, ôm tôi vào lòng và vỗ về như một đứa con từ xa trở về. Cảm giác này thật sung sướng, khó tả.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với các kiều bào dự Chương trình Xuân quê hương 2019. Ảnh: TRÍ DŨNG (TTXVN)

Nhiều người quan tâm đến việc tôi về Việt Nam lần này đã hỏi tôi có bị gây khó dễ không? Tôi nghĩ bên phía an ninh nếu có thì đó là họ cũng làm công việc của mình. Cơ quan an ninh của quốc gia nào cũng vậy, phải luôn đề cao cảnh giác, đó là chuyện bình thường. Nhất là với tôi, một người có quá khứ cực đoan thì việc người ta có đề phòng mình cũng là chuyện rất bình thường. Nhưng thực tế tôi không thấy có sự phiền hà, trách móc. Tôi còn có các buổi gặp gỡ và trao đổi rất thân tình với nhiều anh em, bè bạn trong nước cho nên tôi rất vui sướng. Và tôi nghĩ, nếu có đối thoại nhiều hơn để có sự thông cảm với nhau nhiều hơn thì sẽ càng tốt đẹp cho chính sách mà Nghị quyết 36 do Đảng và Nhà nước đề ra đó là làm sao thu hút được nhân tâm của người nước ngoài cùng chung về một mối trong chính sách hòa hợp dân tộc.

Thực tế con người của Hoàng Duy Hùng thì đã thay đổi từ năm 2011. Với tư tưởng hướng về đất nước, tôi thấy cần phải có trách nhiệm ủng hộ, hợp tác, cùng xây dựng và hòa hợp với chính sách của chính quyền Việt Nam. Nhưng năm 2013 tôi về Việt Nam với tư cách Ủy viên Hội đồng thì tôi vẫn là đại diện cho TP Houston, cho nên tôi phải nghĩ cho thành phố mà tôi là đại diện, không thì người ta sẽ nói tôi làm việc không đúng. Nhưng lần này đi với tư cách cá nhân, về thăm đất nước thì mọi suy nghĩ của tôi là về quyền lợi tối thượng cho Tổ quốc Việt Nam. Điều đó làm cho tâm hồn, trí não tôi chỉ đổ dồn vào một mục tiêu là làm sao để Tổ quốc Việt Nam mau lớn mạnh, mau thành công để mang lại niềm vui cho tất cả con em chúng ta trong những ngày tháng tới.

Tôi nghĩ đa số người Việt đều có tâm tư giống như tôi, nhưng mỗi người từ một bối cảnh riêng của họ mà có sự bày tỏ khác biệt một chút. Tôi có may mắn là đã trải qua những sự va chạm cho nên dám nói ngay, nói thẳng, không sợ gì hết. Việc gì thấy đúng là tôi nói. Tôi biết có những người bạn của tôi rất muốn có được tiếng nói này nhưng họ không nói ra được, và họ cũng nói rằng Hoàng Duy Hùng nói thay cho họ rồi. Tôi cho rằng “đa số thầm lặng” ở Houston hay ở nước Mỹ, đều ủng hộ tiếng nói đó của tôi. Thí dụ khi tôi về đến Hà Nội, qua kênh Youtube riêng, luật sư Trịnh Quốc Thiên đã làm một điều tra độc lập, khảo sát khoảng 1.000 người thì thấy 62% là ủng hộ con đường mà tôi nói tới, là những ánh nhìn, những suy nghĩ thay đổi như vậy với mức độ là “fan (người hâm mộ) cứng” - tức là ủng hộ hoàn toàn. Còn hai mươi mấy phần trăm cũng ủng hộ nhưng có phần dè dặt. Còn lại chỉ có 9% là thờ ơ và 4% là chống đối. Tôi thấy 4% số người chống đối là xuất phát từ lịch sử năm 1975 để lại. Đó là phía những người thuộc “quân lực Việt Nam cộng hòa” hoặc nhân viên của chế độ đó, đã thất trận và mỗi lần nhắc đến quá khứ là nhiều người trong số họ không bước qua được mặc cảm. Hình dung về số người này, tôi nghĩ phần lớn họ đã hơn 70 tuổi, còn những người trẻ thì tôi nghĩ là không có.

Thành phố Hồ Chí Minh đang phấn đấu trở thành trung tâm kinh tế - tài chính - khoa học công nghệ của khu vực. (Ảnh: VOV)

Đáng buồn là đến nay thông tin ở hải ngoại vẫn còn bị bưng bít, dù họ nói trong nước bưng bít nhưng chính họ lại bưng bít họ. Tôi nói thí dụ ở hải ngoại cứ mường tượng bữa ăn của người dân Việt Nam là nghèo đói, thậm chí không có cơm mà ăn, họ tưởng tượng tranh giành nhau từng miếng bánh mì, và điều đó không đúng. Những nơi tôi tới, đa số mâm cơm ít nhất cũng có cơm, có thịt, có cá, có canh, đủ chất dinh dưỡng. Như vậy là lời nói ở hải ngoại không chính xác. Hay họ bảo Việt Nam là “nhà tù lớn”, nhưng tôi nào có thấy nhà tù lớn nào đâu. Người dân đi lại thoải mái, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm. Nhưng mỗi khi cần lấy sự ủng hộ của cộng đồng, họ cần phải tô vẽ ánh nhìn bi quan và tiêu cực về đất nước Việt Nam. Hôm nay, xã hội đã ở thời mạng thông tin 4G, 5G, mọi sự đều có thể nhanh chóng xác minh rõ ràng mà vẫn còn nói vậy thì buồn cười lắm. Hay gần đây, khi đội tuyển Việt Nam sang Phi-li-pin thi đấu, họ xuyên tạc là đội tuyển Việt Nam khổ lắm không có chỗ ở, không có chỗ ăn, tội nghiệp lắm. Rồi họ ghép những hình ảnh photoshop để minh họa. Tôi và anh Nam Sơn có làm chương trình về chuyện này, và chúng tôi rất bực mình vì tại sao thời đại này họ còn làm chuyện buồn cười như vậy, người ở trong nước cười cho thối mặt, xấu hổ vô cùng. Nhân đây, là người hải ngoại, tôi cũng xin lỗi vì những con người như vậy đã khiến hình ảnh của người Việt ở hải ngoại chúng tôi không đẹp. Nhưng không phải ai cũng như vậy đâu, vẫn còn những con người như tôi, như Nguyễn Quang Trường, Nam Sơn,… dám nói sự thật.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ đại biểu trí thức trẻ Việt Nam tại Cộng hòa Pháp. (Ảnh: TTXVN)

Cũng xin thưa nhận thức của Hoàng Duy Hùng ngày hôm nay khác với Hoàng Duy Hùng năm 2018, khác với Hoàng Duy Hùng 2017. Mỗi một năm, tôi cập nhật tin tức và tôi càng thay đổi để ngày hôm nay ánh nhìn của tôi chững chạc hơn trước. Thí dụ các năm 2014, 2015, 2016 tôi vẫn cho rằng đa đảng thì tốt cho Việt Nam, nhưng từ năm 2017 thì tôi lại cho rằng chỉ một đảng lãnh đạo mới tốt cho Việt Nam. Và đến nay thì tôi thấy rằng thể chế ổn định chỉ bởi một đảng là đảng đang cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng này có đường lối đúng đắn, ổn định chính trị, được nhân dân tin tưởng thì mới phát triển được kinh tế đất nước. Bằng chứng là ít nhất trong vòng 5 năm qua, nhờ sự ổn định chính trị này, đất nước mới phát triển, đạt được những thành tựu đáng tự hào như vậy. Tôi thấy cách làm của ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bây giờ, và tôi rất hâm mộ ông. Vì cách làm của ông cho thấy sự quyết liệt, thậm chí có thể nói đây là cách làm của một “Minh vương”. Người ta cứ nói chống tham nhũng, chống tiêu cực nhưng ai đã thấy? Song từ khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã cho thấy thực tế đó. Nhiều vụ án lớn đã được đưa ra xét xử, điều đó khiến những người như tôi tin rằng ông Nguyễn Phú Trọng nói là làm. Ông nhắn nhủ giới trẻ đại ý rằng đất nước của chúng ta đang đứng trước vận hội lớn, và giới trẻ cần tận dụng vận hội đó để đi lên, và ông cũng nhắn nhủ thế hệ trẻ chớ có “nhúng chàm”. Người Việt ở hải ngoại quan tâm đến các vụ án lớn trong nước, nhưng tâm thế của một số người vẫn là chờ xem có thật như vậy hay không. Còn tôi thì không chờ, vì tôi thấy đã được chứng minh rồi. Tôi nói thí dụ, thời “Việt Nam cộng hòa”, ông dược sĩ Nguyễn Cao Thăng được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu giao cho việc quan trọng về quản lý thuốc tây, ông trở thành tỷ phú của thời kỳ đó cũng nhờ những sự chạy chọt, hối lộ, tham nhũng động trời. Bây giờ các ông ở hải ngoại cứ chê Việt Nam tham nhũng, nhưng thử hỏi “thời kỳ dân chủ” mà các ông ca ngợi đó có ai động đến ông Nguyễn Cao Thăng hay không? Còn bây giờ, Nhà nước Việt Nam đã điều tra, truy tố, xét xử các đối tượng tham nhũng là cán bộ cấp cao, là những người có tiền bạc, địa vị qua những vụ án động trời. Vậy so sánh, ai là người nói và làm? Nói thì ai cũng nói được, nhưng hơn hết, phải chứng minh bằng hành động thì mới thuyết phục.

Việc những người lớn lên và sống trong chế độ “Việt Nam cộng hòa” có ý kiến chính trị trái chiều với những người trong nước là tự nhiên và bình thường. Nhưng qua quá trình sàng lọc và tìm hiểu thì chúng ta cũng nên tôn trọng sự thật. Người phía bên “Việt Nam cộng hòa” cần có sự tìm hiểu, mở lòng để thấy được lòng yêu nước của những người cộng sản, chứ không chỉ như lâu nay nhìn những gì thuộc về cộng sản là xấu, là ác. Khi tìm hiểu tôi thấy trong lịch sử, những người cộng sản rất yêu nước, rất hào hùng và tôi thật sự cảm động, tôn trọng. Tôi từng đấu tranh chống lại chế độ trong nước lúc đó cũng xuất phát từ lòng yêu nước, nhưng vì nhìn dưới lăng kính khác. Qua quá trình tìm hiểu, lòng yêu nước của tôi được điều chỉnh theo những sự kiện mới, những tin tức, nhận thức chính xác hơn. Chính vì lý do đó, tôi ủng hộ chủ trương hòa hợp dân tộc của Ðảng, Nhà nước Việt Nam. Mình đừng để gánh nặng của quá khứ trở thành gánh nặng của chính mình, và gánh nặng cho tương lai của thế hệ trẻ.

Khi tôi còn là Ủy viên Hội đồng TP Houston, năm 2011, thành phố có mời Thủ tướng Lý Hiển Long của Xin-ga-po qua thuyết trình, ông Lý Hiển Long có nói đại ý: “Dân tộc nào bị phân hóa không cần biết vì lý do gì, về quá khứ, về kinh tế, về chính trị,... thì dân tộc đó là món mồi ngon để dân tộc khác xâu xé”. Sau bốn mươi mấy năm trời rồi, nếu vì hận thù, vì hiểu sai mà để nó trở thành vết thương rỉ máu, không lành lại cho đất nước Việt Nam, cho “mẹ Việt Nam”, thì chính vết thương đó là sự phân hóa, là cơ hội cho quốc gia khác xâu xé đất nước chúng ta. Nếu người Việt Nam không biết yêu thương người Việt Nam thì ai thương dân tộc Việt Nam? Vậy nên nói “hòa hợp dân tộc” có thể dễ nhưng mỗi người Việt hải ngoại cần phải thật sự mở lòng, trải qua quá trình thực hành, phải dám dấn thân. Tôi tin rằng chủ trương hòa hợp dân tộc của Ðảng, Nhà nước Việt Nam là con đường đúng đắn nhất để giải quyết vấn đề tương lai của Việt Nam. Ðiều đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải thật sự có Tâm, có Tầm, có Dũng để cố gắng thực hiện chính sách này.

Cách đây hơn 10 năm ông Nguyễn Cao Kỳ (nguyên Phó Tổng thống chế độ “Việt Nam cộng hòa”) từng nói đại ý: Cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ không có người đứng đầu, không có một lãnh tụ mà chỉ là những nhóm tàn quân và người nào “nói to” người đó sẽ đứng lên làm thủ lĩnh. Tôi thấy đây là lời nhận xét chính xác trong bối cảnh lúc đó và cả trong lúc này. Ðiều này được chứng minh bởi nhiều chính khách Mỹ đã nói với tôi: Nếu chúng tôi muốn nói chuyện thì họ không biết nói chuyện với ai hết, vì ông nào cũng xưng vương xưng tướng, nào là tự phong làm “tổng thống”, nào là “thủ tướng” nhưng không có thực lực. Mà “thùng rỗng kêu to”, rồi đưa ra những chính sách kỳ quái. Ðó là điều đau buồn cho “mẹ Việt Nam”. Những người đó tầm nhận thức không có, thiếu thông tin và thiếu nhiều yếu tố khác nữa nên cứ ngỡ mình là “cái rốn của vũ trụ”. Họ đưa ra những chính sách sai lầm mà cứ tưởng là đúng, ai không làm theo chính sách đó thì họ kết án là “Việt gian”, “Việt cộng nằm vùng”! Cần hiểu rằng thành công của chủ trương hòa hợp dân tộc của Ðảng, Nhà nước Việt Nam là tất yếu, lịch sử cuối cùng sẽ vẫn đi đến sự thống nhất, quan trọng là nhanh hay chậm mà thôi. Nếu chúng ta không cùng chung tay, không có sự chung sức đối với Ðảng, Nhà nước Việt Nam, các cá nhân, tổ chức ở trong nước để hỗ trợ những người có cùng ánh nhìn như các bạn thì con đường này sẽ bị kéo dài. Chúng ta cần “đốt cháy giai đoạn”. Thế hệ trẻ trong nước cũng như ngoài nước cần có sự giao lưu để không còn bị vướng mắc bởi một số điều của quá khứ lịch sử tồn đọng.

Ðây là một bất công cho những người trẻ vô tội. Chúng tôi đang cố gắng làm viên gạch lót đường, phải phá vỡ định kiến những hiểu lầm, không chính xác của những người như vậy để thế hệ trẻ hai bên đến với nhau một cách dễ dàng thoải mái. Như thế hệ con cháu của tôi mà nghe người ta nói: “Ô, con cháu của ngụy” chắc chắn cũng sẽ rất đau lòng. Tôi từng vào các trường đại học, gặp các em sinh viên đến từ Việt Nam, lập tức tôi bị các bác, các chú bên đó bảo là tôi đi với Việt cộng. Tôi nói nếu không tới gặp họ, nghe họ nói thì đâu có phải là người Việt Nam. Hãy đến với nhau là người Việt Nam trước đã. Và khi nói chuyện, tôi thấy tất cả đều chung một mục tiêu là vì “mẹ Việt Nam” nhưng chỉ khác biệt là quá khứ liên quan đến năm 1975. Và tôi cần phải nói lại một lần nữa, dân tộc nào mà bị phân hóa vì bất cứ lý do nào thì dân tộc đó là miếng mồi ngon cho dân tộc khác xâu xé, và cũng là cơ hội cho sự hận thù lớn mạnh. Tôi mong rằng các bậc cha chú ở hải ngoại hãy hiểu tâm tư của chúng tôi, vì như thế đau lắm. Chúng ta cùng nhau xây dựng đất nước từ cái Tâm nhưng cũng cần có cái Tầm. Và tôi cũng kêu gọi các bác bên hải ngoại đừng mang nặng cái quá khứ, cái mặc cảm lịch sử năm 1975 mà hãy mở rộng lòng cho con cháu được thoải mái, trở về cùng với “mẹ Việt Nam”. Hy vọng vài năm nữa chúng ta sẽ bước qua “vết sẹo” năm 1975, để cùng cất bước trở thành một trong những quốc gia mạnh trên thế giới.

Trong Nghị quyết 36, Ðảng, Nhà nước Việt Nam đã khẳng định chủ trương nhất quán và xuyên suốt. Tức là với cộng đồng người Việt ở hải ngoại là số cộng với trong nước chứ không có số trừ, do đó phải bằng mọi cách để giúp cộng đồng hải ngoại vươn mạnh lên. Nhưng cộng đồng ở hải ngoại lại coi đó là sự xâm nhập. Tôi cũng chủ trương “cộng” chứ không “trừ”. Không ai chủ trương “trừ” hết, trừ những ai không có thiện tâm với đất nước. Vậy làm sao để chủ trương này được thực hiện một cách có hiệu quả? Tôi thấy trong những năm qua, Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đề ra nhiều chính sách rộng mở vòng tay, thậm chí có thể ví von, gần giống như là đã “xuống ngựa” để nâng đỡ người “ngã ngựa” (những người thuộc chế độ “Việt Nam cộng hòa” trước đây) lên. Và tôi cũng đang kêu gọi những người từng “ngã ngựa” hãy bình tĩnh nhìn nhận, chứ đừng bao giờ nghĩ rằng hành động giơ tay của những người trong nước để đứng dậy cùng nhau xây dựng đất nước là “tát” vào mặt mình. Khi nào chấp nhận điều đó, chúng ta sẽ đốt cháy được giai đoạn để có sự hòa hợp dân tộc. Chúng ta hãy cùng nhau chủ trương chữ “xây”, hay cũng giống như chữ “cộng”, đừng bao giờ chủ trương chữ “phá”, chữ “trừ”.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gặp mặt các đảng viên trẻ tiêu biểu toàn quốc học tập và làm theo lời Bác (8/2019). (Ảnh: TTXVN)

Trước việc thời gian qua một số người hải ngoại xuống đường biểu tình chống Ðảng Cộng sản, chống Luật An ninh mạng, chống dự án Luật Ðặc khu và tự cho rằng đó là yêu nước thì tôi nhớ tới câu: “nhiệt tình cộng với ngu dốt là phá hoại”. Những người này cứ tưởng nhiệt tình của họ là yêu nước. Nhưng nhiệt tình đó giống như một bó lửa, nếu bó lửa đó sử dụng không đúng chỗ mà lại dùng để đốt nhà, đốt đường, đốt phố thì sẽ thành phá hoại. Vậy biểu tình để làm gì? Biểu tình từ ngày này sang tháng nọ, biểu tình không trúng, hiểu cũng không trúng thì để làm gì? Thí dụ Luật An ninh mạng, họ cứ nghĩ đó là cấm cản tự do ngôn luận của họ, vậy là họ hiểu lầm. Nước Mỹ cũng thông qua nhiều đạo luật liên quan an ninh mạng nhằm theo dõi, ngăn cấm việc phá hoại an ninh của quốc gia. Quyền tự do ngôn luận phải trong trật tự, thí dụ mình lái xe thì phải biết dừng khi đèn đỏ, chứ không phải tự do lái xe là mình cứ lái ẩu, tông vào xe người ta. Khi đó, mình đã xâm phạm quyền của người ta. Vậy nên tự do ngôn luận phải đặt dưới an ninh quốc gia và dưới trật tự xã hội. Ðó mới chính là đặt tự do ngôn luận có ngăn nắp, quy củ, và giúp quyền tự do đó phát huy tốt đẹp hơn.

Cách đây khoảng 10 năm, khi về Hà Nội, ông Nguyễn Cao Kỳ cũng nói rằng việc ủng hộ chủ trương hòa hợp dân tộc là xu thế tất yếu. Tuy nhiên lúc đó xu thế “chống cộng” còn khá quyết liệt nên ông bị phản ứng dữ dội. Vì lúc đó ông đã lớn tuổi nên phản ứng của ông có phần chậm. Khi ông mất, người ta cho rằng đó là sự thất bại của ông. Nhưng thời điểm của tôi thì có lẽ tôi trẻ hơn, tôi dám nói mạnh hơn, phản ứng quyết liệt hơn. Ai phản ứng với tôi thì tôi phản ứng dữ dội hơn để bảo vệ quan điểm của mình. Vậy nên hai chục năm qua tôi bị người ta tấn công. Tôi công khai việc này, nhất là từ khi tôi là Ủy viên Hội đồng TP Houston, có người còn dọa đặt bom ở nhà tôi, song tôi không ngại. Rồi phản ứng, phản đối ngày càng xẹp xuống. Bằng chứng nếu trước đây ai xuất hiện trên Báo Nhân Dân, VTV… thì chỉ cần thấy mặt trên đó là người ta (người Việt ở hải ngoại) đánh phá và chửi bới không còn cái gì. Nhưng trong chuyến về Hà Nội lần này, không những tôi có bài đăng trên Báo Nhân Dân mà tôi còn đến thăm Tòa soạn báo, và phát biểu những suy nghĩ từ lương tâm của tôi, thì xem thử phản ứng của người Việt bên đó, báo chí bên đó thấy họ im hết. Im không có nghĩa là họ không xem, hay im không có nghĩa là họ đồng ý, nhưng cho thấy sự chống đối của họ không còn như trước nữa, họ cân nhắc xem những gì Hoàng Duy Hùng nói có thật hay không. Các video clip ghi lại hoạt động của tôi trong chuyến về Việt Nam lần này được đăng trên các kênh như VHVN TV, Phố Bolsa TV,… có tới hơn 90% comment (bình luận) ở dưới là ủng hộ. Ðiều đó cho thấy lúc này “đa số thầm lặng” không sợ bị phản đối nữa, họ nói thật lòng họ, và sự thật lòng cho thấy họ muốn hòa hợp dân tộc, nhờ đó sẽ giúp hàn gắn vết thương lòng năm 1975 và đây cũng là chính sách mở ra vận hội mới cho con em của chúng ta.